Xử lý như thế nào đối với hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động?

Theo thống kê cho thấy, hiện nay, tình hình nợ tiền bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp đã lên đến con số 11.660 tỷ đồng đáng báo động. Tình hình này ngày một gia tăng và số lượng người đề nghị hưởng bảo hiểm xã hội một lần đang ngày có chiều hướng gia tăng gây áp lực không ngừng lên quỹ bảo hiểm xã hội. Đóng bảo hiểm xã hội là nghĩa vụ bắt buộc của người sử dụng lao động đối với người lao động của mình nhưng thực tế lại đang chứng minh điều ngược lại là các doanh nghiệp dùng nhiều cách để không đóng khoản tiền này. Vậy pháp luật có chế tài gì để xử lý đối với hành vi vi phạm của các doanh nghiệp và đồng thời chính những người lao động cần phải làm sao khi quyền lợi của mình bị ảnh hưởng?

trốn đóng BHXH

Nguồn ảnh: LuatVietnam

Việc doanh nghiệp trốn không đóng bảo hiểm xã hội được coi là hành vi bị cấm theo quy định tại Khoản 1 Điều 17 Luật Bảo hiểm xã hội 2014: “Trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp”.

Hành vi này đã vi phạm về nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội và phải chịu trách nhiệm quy định tại khoản 5 Điều 38 Nghị định 28/2020/NĐ-CP về Vi phạm quy định về đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp nếu chưa tới mức xử lý hình sự: Phạt tiền từ 18% đến 20% tổng số tiền phải đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp tại thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính nhưng tối đa không quá 75.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động không đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp cho toàn bộ người lao động thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”. Căn cứ theo quy định trên, doanh nghiệp không đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động sẽ bị xử phạt với số tiền từ 18% đến 20% tổng số tiền bảo hiểm xã hội phải đóng nhưng không quá 75.000.000 đồng.

Ngoài ra, người sử dụng lao động còn phải thực hiện những biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm theo Khoản 7 Điều này:

a) Buộc truy nộp số tiền bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp phải đóng đối với các hành vi vi phạm quy định tại các khoản 4, 5, 6 Điều này;

b) Buộc nộp số tiền lãi bằng 02 lần mức lãi suất đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội bình quân của năm trước liền kề tính trên số tiền, thời gian chậm đóng, không đóng, trốn đóng; nếu không thực hiện thì theo yêu cầu của người có thẩm quyền, ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước có trách nhiệm trích từ tài khoản tiền gửi của người sử dụng lao động để nộp số tiền chưa đóng, chậm đóng và lãi của số tiền này tính theo lãi suất tiền gửi không kỳ hạn cao nhất của các ngân hàng thương mại nhà nước công bố tại thời điểm xử phạt vào tài khoản của cơ quan bảo hiểm xã hội đối với những hành vi vi phạm quy định tại các khoản 4, 5, 6 Điều này từ 30 ngày trở lên.”

Có thể thấy, ngoài việc bị xử phạt do hành vi vi phạm, doanh nghiệp còn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động của mình.

Nếu hành vi không đóng bảo hiểm xã hội của doanh nghiệp đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì các cá nhân có liên quan hoặc doanh nghiệp đó sẽ phải chịu hình phạt theo quy định tại Điều 216 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) về Tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động:

1. Người nào có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động mà gian dối hoặc bằng thủ đoạn khác để không đóng hoặc không đóng đầy đủ theo quy định từ 06 tháng trở lên thuộc một trong những trường hợp sau đây, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Trốn đóng bảo hiểm từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng

b) Trốn đóng bảo hiểm cho từ 10 người đến dưới 50 người lao động

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Phạm tội 02 lần trở lên;

b) Trốn đóng bảo hiểm từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;

c) Trốn đóng bảo hiểm cho từ 50 người đến dưới 200 người lao động;

d) Không đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của người lao động quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản 1 Điều này

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Trốn đóng bảo hiểm 1.000.000.000 đồng trở lên;

b) Trốn đóng bảo hiểm cho 200 người lao động trở lên;

c) Không đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của người lao động quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 2 Điều này.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

5. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:

a) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng;

b) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng;

c) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng.”

Theo căn cứ trên có thể thấy, đối với từng mức độ và tính nghiêm trọng trong hành vi không đóng bảo hiểm xã hội của doanh nghiệp thì sẽ có những mức xử lý khác nhau:

Nếu các nhân có liên quan bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ bị phạt tiền hoặc phạt tù tùy theo mức độ vi phạm quy định tại Khoản 1, 2, 3 của Điều này. Ngoài ra cá nhân này còn cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Nếu doanh nghiệp vi phạm tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì bị phạt tiền với mức phạt tối đa lên tới 3.000.000.000 đồng.

Tuy nhiên, theo Điều 5 Nghị quyết 05/2019/NQ-HĐTP về hướng dẫn thi hành Điều 216 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) có một số trường hợp sẽ không áp dụng theo Điều 216 đối với hành vi được thực hiện trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018:

“1. Đối với hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp thực hiện trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 thì không xử lý về hình sự theo quy định tại Điều 216 của Bộ luật Hình sự mà tùy từng trường hợp xử lý như sau:

a) Trường hợp chưa xử phạt vi phạm hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính thì cơ quan có thẩm quyền xem xét xử phạt vi phạm hành chính.

b) Trường hợp đã xử phạt vi phạm hành chính mà cá nhân, tổ chức bị xử phạt cố tình trốn tránh, trì hoãn việc thi hành thì thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính được xác định theo quy định tại khoản 2 Điều 74 của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Việc thi hành, cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính này thực hiện theo pháp luật về thi hành, cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

c) Trường hợp gây thiệt hại cho người lao động, cơ quan bảo hiểm xã hội hoặc tổ chức, cá nhân khác thì người bị thiệt hại có thể khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đối với người vi phạm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

2. Không coi việc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 là căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 216 của Bộ luật Hình sự.”

Thực tế tính đến thời điểm hiện nay, do việc áp dụng những quy định của pháp luật còn chưa thực sự hiệu quả nên còn khá ít vụ việc liên quan đến vấn đề này bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đa phần đều mới chỉ bị xử phạt hành chính. Một câu hỏi được đặt ra lúc này là nếu chưa tới mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì mức phạt đối với những doanh nghiệp trên liệu rằng còn quá nhẹ nhàng? Con số tối đa không quá 75.000.000 đồng có vẻ chưa đủ sức nặng, chưa đủ tính răn đe bởi số tiền mà các doanh nghiệp trốn đóng bảo hiểm cho người lao động hàng năm là cực kì lớn và gây áp lực không hề nhỏ lên quỹ bảo hiểm xã hội. Con số ấy đang là rào cản để các cơ quan nhà nước có thể xử lý mạnh tay hơn đối với việc trốn đống bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp.

Trước thực trạng này, ngoài sự vào cuộc của các cơ quan chức năng thì chính sự tự bảo vệ của chính người lao động mới là yếu tố quan trọng nhất để ngăn chặn hành vi vi phạm của doanh nghiệp. Căn cứ theo Khoản 1 Điều 118 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 về Khiếu nại về bảo hiểm xã hội: “Người lao động, người đang hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng, người đang bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội và những người khác có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định, hành vi của cơ quan, tổ chức, cá nhân khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình.”, người lao động hoàn toàn có quyền lên tiếng khi có căn cứ xác định quyền lợi của mình bị xâm phạm. Họ có quyền khiếu nại lên cơ quan, tổ chức liên quan tại doanh nghiệp để xem xét hoặc khiếu nại, yêu cầu giải quyết tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Người lao động có thể thông qua tổ chức công đoàn để giám sát hoạt động đóng bảo hiểm xã hội. Đặc biệt, công đoàn phải là tổ chức đại diện cho ý chí, nói lên tiếng nói để bảo vệ quyền lợi của những người lao động tại doanh nghiệp.

logo

Link & Partners

Là đơn vị tư vấn luật hàng đầu tại Việt Nam.

 Phòng 2403 tòa A3, chung cư Ecolife Capitol, số 58 Tố Hữu, Quận Nam Từ Liêm, Thàn phố Hà Nội, Việt Nam
0243.997.2222 - 0949.592.295
[email protected]

Fanpage

Hotline: 0243-997-2222

Scroll to Top