Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, Văn bằng bảo hộ nhãn hiệu (Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu) có hiệu lực 10 năm kể từ ngày nộp đơn và có thể gia hạn nhiều lần liên tiếp. Tuy nhiên, văn bằng bảo hộ cũng có thể hết hiệu lực kể cả khi chưa hết thời hạn bảo hộ đó, đó là các trường hợp: bị chấm dứt hiệu lực trước thời hạn hoặc bị hủy bỏ toàn bộ hiệu lực.
Điểm chung của 2 trường hợp trên là các tổ chức, cá nhân đều có quyền yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp chấm dứt/ hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ.
Điểm khác nhau của hai trường hợp này đó là:
Thứ nhất, các trường hợp dẫn đến việc văn bằng bảo hộ bị chấm dứt hiệu lực khác với các trường hợp hợp dẫn đến việc văn bằng bảo hộ bị hủy bỏ hiệu lực. Các trường hợp Chấm dứt hiệu lực được quy định tại Điều 95, các trường hợp hủy bỏ được quy định tại Điều 96 Luật Sở hữu trí tuệ.
Thứ hai, về thời hiệu: đối với chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ thì có thể là bất kì lúc nào trong thời hạn bảo hộ: khi chủ văn bằng tuyên bố từ bỏ quyền sở hữu công nghiệp; chủ văn bằng không còn tồn tại mà không có người kế thừa hợp pháp; nhãn hiệu không được sử dụng 05 năm liên tiếp; chủ giấy chứng nhận vi phạm quy chế sử dụng nhãn hiệu chứng nhận hoặc kiểm soát không có hiệu quả; hay bất cứ khi nào chứng minh được rằng các điều kiện địa lý tạo nên danh tiếng, chất lượng đặc tính của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý bị thay đổi.
Đối với hủy bỏ toàn bộ hiệu lực văn bằng bảo hộ, nếu người nộp đơn đăng ký không có quyền đăng ký và không được chuyển nhượng quyền đăng ký đối với nhãn hiệu hoặc đối tượng sở hữu công nghiệp không đáp ứng các điều kiện bảo hộ tại thời điểm cấp văn bằng thì tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước về quyền Sở hữu công nghiệp hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ đối với nhãn hiệu. Thời hiệu thực hiện quyền yêu cầu là năm năm kể từ ngày cấp văn bằng bảo hộ, trừ trường hợp văn bằng bảo hộ được cấp do sự không trung thực của người nộp đơn thì thời hiệu này có thể lâu hơn.
Thứ ba, trước thời điểm hiệu lực văn bằng bảo hộ không còn, trường hợp chấm dứt hiệu lực thì hiệu lực trước đó vẫn được công nhận, còn trường hợp hủy bỏ thì phần bị hủy bỏ sẽ không được công nhận.
Thứ tư, mức phí yêu cầu phải nộp cho Cục Sở hữu trí tuệ cũng khác nhau.